Nguồn gốc họ Cao Việt Nam

Cỡ chữ

Họ Cao

Đây là một phần trích trong cuốn VIỆT NAM - NGUỒN GỐC DÒNG HỌ CÁC DÂN TỘC.

Mục đích: tìm hiểu về nguồn gốc các dòng họ Việt xưa & nay. Theo tôi, muốn hiểu về nguồn gốc dòng họ Việt, phải hiểu về nguồn gốc dân Bách Việt, sau này là Lạc Việt. Chúng ta không tranh luận về việc họ Việt có trước hay sau họ của người Hoa… Nhưng cần khẳng định, văn minh của người Việt cổ có trước văn minh Hoa Hạ. Văn minh Hoa Hạ có trước văn minh Hán; Nghĩa là nền văn minh của chúng ta có trước văn minh Trung Hoa…

…Xưa kia, Bách Việt gồm nhiều bộ tộc Việt cổ, họ sống trải rộng khắp vùng nam sông Dương Tử xuống hết phía nam lục địa Trung Hoa, cho đến tận miền trung Việt Nam ngày nay…

Họ Hồng Bàng, trị vì nước Văn Lang, với vương hiệu Hùng Vương. Các vua Hùng thuộc dòng họ Hùng đầu tiên ở Việt Nam, không phải chỉ có 18 đời vua mà là 18 chi, mỗi chi có nhiều đời vua. Như vậy, các dòng họ Việt đã có lịch sử từ nhiều ngàn năm nay…(tôi sẽ trình bày kỹ việc này trong nội dung cuốn sách TÌM HIỂU NGUỒN GỐC CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM).

Dưới đây, tôi xin trích một phần về họ Cao Việt Nam để quý anh chị tham khảo. Rất mong sư hợp tác của quý anh chị để bộ sách qý này có thể sớm ra mắt công chúng, góp phần làm rạng rỡ lịch sử dòng họ Việt Nam. Cho chúng ta niềm tự hào là người Việt Nam.

Tư liệu về nguồn gốc dòng họ rất cần tham khảo, đối chiếu từ nhiều nguồn, đặc biệt từ gia phả của các dòng họ. Phần dịch nội dung gia phả cổ là hết sức quan trọng & ngày càng đòi hỏi sự chung tay góp sức từ các học giả, cá nhà nghiên cứu, dịch giả Hán-Nôm v.v…

Các chi họ, dòng họ Cao trên mọi miền đất nước cũng như ở nước ngoài – tất cả đều nhận danh tướng Cao Lỗ là tiền đại viễn tổ của dòng họ Cao ở Việt Nam. Nghĩa là người họ Cao chỉ có một thủy tổ duy nhất là THÁNH TỔ CAO LỖ VƯƠNG.

Tính từ thủy tổ Cao Lỗ (?-179 TCN) đến nay, họ Cao đã trải qua 2300 năm với trên 90 đời con cháu, chắt, chút… Các chi họ Cao đã phát triển thêm nhiều cành, nhánh với hàng vạn nhân khẩu định cư trải dài trên nhiều địa phương trong & ngoài nước.

Ở vùng Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội ngày nay còn nhiều dòng họ là hậu duệ các quan lại từ thời An Dương Vương, như các dòng họ An, họ Âu, họ Bùi, họ Chu, họ Đỗ, họ Đào, họ Lại, họ Nguyễn, họ Phạm, họ Trương v.v…Có thể khẳng định, nguồn gốc các dòng họ Việt Nam đã có ít nhất là 2300 năm, từ thời An Dương Vương.

Cao Lỗ (? - 179 trước Công nguyên):

Còn gọi là Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần. Cao Lỗ là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán ở xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Hình lăng mộ & đền thờ tướng quân Cao Lỗ ở Gia Bình, Bắc Ninh.

Lăng mộ Cao Lỗ Vương ở xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Người dân làm lễ ở Đền thờ Cao Lỗ Vương (xã Cao Đức, Gia Bình).


Cao Quýnh (1449-1535):

người làng Phú Trung, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Ông nổi tiếng là người học thông biết rộng. Trong suốt cuộc đời làm quan, ông luôn chăm lo công việc triều chính, đề xướng chính sách lương thực, mở mang thủy lợi, tạo điều kiện cho nông nghiệp nước nhà phát triển, được người đời khen ngợi. Ông đỗ Đệ Nhất Giáp tiến sĩ năm 1475 thời Lê Thánh Tông. Khi mất, mộ ông được an táng tại xứ Mã Tây, thôn Xuân Lôi, xã Diễn Thành, Nghệ An. Vua Tự Đức thứ X (1857) ban sắc phong ông là Tuấn Lương Thần; Triều Nguyễn - Vua Thành Thái năm thứ XVI xét công trạng của ông cũng đã phong sắc với nội dung: “Sắc cho thôn Tú Mỹ, xã Hạnh Lâm, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An phụng sự Thám hoa Đông các đại học sỹ Cao tướng công tôn thần, hộ quốc giúp dân, tỏ rõ linh ứng. Trước đây chưa được ban cấp sắc phong. Nay Trẫm vâng mệnh nối ngôi báu nhớ tới ơn thần ban phong là: Trác vĩ dục bảo trung hưng thượng đẳng thần, chuẩn cho phụng sự như cũ. Thần hãy bảo vệ con dân của Trẫm. Kính cẩn! (ngày 25/11 năm Thành Thái thứ XVI -1904).

Nhà thờ của Thám hoa Cao Quýnh tại xóm 8, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu có hai tòa: hạ điện và thượng điện. Nội thất có nhiều hiện vật quý. Long ngai bài vị ông có vị hiệu: Thần tổ hội nguyên đình tứ Thám hoa Đông các đại học sỹ, cao tặng tuấn lương tước phong Trác vĩ dực bảo trung hưng thượng đẳng tối linh tôn thần. Tại nhà thờ còn có lọng vàng, 2 bức đại cổ sơn son thiếp vàng do hội văn huyện Diễn Châu kính tặng, 2 thẻ thượng đẳng khôi khoa, 2 hàng gươm giáo 8 ngọn, 6 cặp câu đối, các bộ trống, chuông đồng.

Gia phả (Dịch từ chữ Hán) họ Cao Quan Thám hiện lưu ở nhà ông Cao Hoa, tộc trưởng, xóm 8, Diễn Thành, Diễn Châu. Sắc phong và bản dịch để trong nhà thờ họ Cao Quýnh, ở Diễn Thành, Diễn Châu, Nghệ An.

Phụ chương gia phả sắc phong Cao Quýnh

Sách Khoa bảng Nghệ An ghi “Cao Quýnh người xã Cao Xá (nay là xã Diễn Thành,

huyện Diễn Châu) thi Hương đậu nhất cử (giải Nguyên), 37 tuổi đậu Đệ nhất giáp cập đệ Tam Gianh (Thám Hoa) khoa Ất Mùi Hồng Đức thứ VI (1475) đời Lê Thánh Tông. Ông nguyên có tên là Lỗ (Cao Lỗ), được ngự bút của vua sửa tên là Quýnh (Cao Quýnh), làm quan đến Đông các đại học sỹ.

Sắc phong của vua Thành Thái cho Thám hoa Cao Quýnh (Hiện còn lưu tại nhà thờ ở Diễn Thành, Diễn Châu).

Ảnh chụp nhà thờ Cao Quýnh

Cao Dương Trạc (1690-1753):

Nguyên quán Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Theo CAO DƯƠNG THẾ HỆ KÝ & CAO DƯƠNG HẬU PHẢ TẬP: ông đỗ đồng Tiến sĩ năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (Ất Mùi 1715) triều Lê Dụ Tông (1705-1729), làm quan Thượng thư ở Bộ Hộ, sau chuyển sang Bộ Lại. Ông là người ưa thích văn học, được vào cung bàn luận thơ phú. Năm Vĩnh Hựu (Ất Mão 1735), ông được tiến chức Thượng thư bộ Binh. Năm Bính Dần (1746), triều Cảnh Hưng thứ 7, vào tuổi 56, ông chuyển sang làm Thượng thư Bộ Lễ kiêm Đông các đại học sĩ. Sau ông từ chức Thượng thư Bộ Lễ, ra làm Đốc đồng Thanh Hoá. Khi mất, ông được tặng hàm Thiếu bảo.

Cao Huy Dật (1707-1749):

Nguyên quán Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Theo CAO DƯƠNG THẾ HỆ KÝ & CAO DƯƠNG HẬU PHẢ TẬP: Ông đậu Nho sinh trúng thức, chức Phụng Thị Văn Nội Giảng. Ông là cháu ruột, gọi Thượng thư Cao Dương Trạc là chú. Năm 1747, ông được thượng thư Cao Dương Trạc ủy thác viết gia phả họ Cao (CAO DƯƠNG THẾ HỆ KÝ & CAO DƯƠNG HẬU PHẢ TẬP). Ông Cao Huy Dật là con trai Tả Bình Quan Cao Đức Doanh.

Cao Tư (1744-1818):

Ông sinh năm Giáp Tý, mất năm Kỷ Mão, thọ 75 tuổi. Nguyên quán Hoa Cầu, Văn Giang, Hưng Yên (nay là Hà Nội). Ông làm quan võ dưới triều Lê trung hưng. Khi mất, được phong tước Thái Bảo Thọ Quận Công - Phó Quốc. Tổ phụ cụ Cao Tư là Cao Thụy Tín Mỹ di dời từ xã Hoa Cầu vào lập nghiệp ở Thành Hóa. Sinh thời, cụ Cao Tư cho dời mộ cụ tổ Cao Thụy Tiến Mỹ từ Thanh Hóa ra an táng tại thôn Công An, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Cụ cho con cháu đến định cư và xây dựng nhà thờ ở đó. Hiện nay, cụ Cao Thanh, trưởng chi họ Cao ở xã Thượng Lâm, huyện Mỹ Đức, tỉnh Sơn Tây xưa (nay thuộc Hà Nội) đang lưu giữ cuốn Cao Tộc Phả Ký. Theo CAO DƯƠNG THẾ HỆ KÝ & CAO DƯƠNG HẬU PHẢ TẬP: chi họ Cao ở Văn Giang là chi thứ. Chi họ Cao ở Sủi, Phú Thị là chi trưởng, có cùng nguồn gốc từ chi họ Cao ở Bút Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.

Hình ảnh & Video
Mộ cụ Cao Tư ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
Mộ cụ tổ Cao Thụy Tín Mỹ ở Chương Mỹ, Hà Nội.

Phụ chương gia phả chi họ Cao Tư

Dòng họ cụ Cao Tư ở Thanh Hóa có đến 30 võ quan dưới triều Lê trung hưng. Năm 2003, Sở Văn Hóa Tông tin tỉnh Thanh Hóa đã cấp bằng công nhận cụ Cao Tư là “Danh nhân văn hóa” của tỉnh và được xây dựng đền thờ tại thôn Hoằng Lộc, Hoằng Phúc, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.

Cao Đình Độ (1741-1810) & con trai là Cao Đình Hương:

Nguyên quán Hoa Cầu, Văn Giang, Hưng Yên (nay là Hà Nội). Tổ phụ ông di đời từ xã Hoa Cầu vào lập nghiệp tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Những người thợ kim hoàn ở miền Trung đều coi hai bố con ông là tổ sư của nghề Kim hoàn, họ lấy ngày 7/2 âm lịch (ngày giỗ của ông Cao Đình Hương, người trực tiếp truyền nghề rộng rãi trong dân gian) làm ngày giỗ Tổ. Di tích nhà thờ Tổ nghề kim hoàn được xếp hạng di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 168-QĐ/VH, ngày 2/3/1990 của Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch).

Hình ảnh về ngôi nhà thờ tổ nghề kim hoàn ở Thừa Thiên-Huế

Cao Hữu Dực (1799-1859):


Còn gọi là Cao Hữu Bằng hoặc Cao Hữu Phùng: Nguyên quán gốc Thanh Hóa. Thủy tổ là cụ Cao Mác (Theo thế phả của dòng họ Cao Hữu, ông là người làng Thế Chí Đông 1, xóm Chùa, xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Ông Đậu Hương Cống năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) - Theo THỰC LỤC CHÍNH BIÊN, ĐỄ NHỊ KỶ, QUYỂN XXXIV. Ông làm quan đến chức Thượng thư Bộ binh, Tổng Đốc An-Hà (An Giang & Hà Tiên) thời Minh Mạng. Khi mất, được truy tặng Hiệp biện đại học sĩ. Con là Cao Hữu Sung làm quan đến Tuần phủ và là tác giả tuồng Nôm: Địch Thanh 1918. Cháu nội cụ Cao Hữu Dực là Cao Hữu Lương đỗ khoa thi Hương.
Phụ chương gia phả Cao Hữu Dực

Cao Hữu Dực giỏi về văn chương và là người khai sinh tuồng Ô Thước & tuồng Tống Tử Vân. Báo Nông Cổ Mín Đàm, số 417, ngày Thứ Ba 22 tháng Ba năm 1910 và những số kế tiếp, lúc chánh chủ bút Lê Văn Trung và phó chủ bút Nguyễn Chánh Sắt, có đăng tin quảng cáo như sau: Những tuồng mới in đây là của ông Cao Hữu Dực, cựu Tổng Đốc trấn tỉnh An Giang. Tuồng Ô Thước, bộ 4 thứ 0$80, tuồng Ngũ Hổ Bình Tây 1, 2, 3 giá 0$25, Tuồng Tống Từ Vân…có thể, ông cũng là tác giả vở tuồng Lý Thiên Long.

Cao Bá Quát (1809-1865):

Theo CAO DƯƠNG THẾ HỆ KÝ & CAO DƯƠNG HẬU PHẢ TẬP: Ông sinh tại làng Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội – Là con trai trưởng (chi Giáp Nhất) cụ Cao Huy Tham (1784-1850); Ông là em song sinh với Cao Bá Đạt (1809-1855), nguyên Tri huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Ông nội Cao Bá Quát tên là Cao Huy Thiềm (1761-1821).

Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm tân mão, niên hiệu Minh Mệnh thứ 12 (1831). (theo hồ sơ số H62/3 Quốc triều Hương khoa lục, quyển 01B, mặt khắc 77). Làm quan Giáo thụ phủ Quốc Oai, sau cáo quan về quê chăm sóc mẹ già 68 tuổi (Theo Châu Bản Triều Nguyễn). Cao Bá Quát là nhà cách mạng, quốc sư của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (1854-1855) chống lại triều đình Nhà Nguyễn.

Phụ chương Cao Dương thế hệ ký &

Cao Dương hậu phả tập

Đương thời, Cao Bá Quát & Nguyễn Văn Siêu được vua Tự Đức ca ngợi là:

Văn như Siêu Quát vô tiền Hán,

Thi đáo Tùng Tuy, thất thịnh Đường.

Tạm dịch:

Văn như Siêu, Quát hơn Tiền Hán
Thơ cỡ Tùng, Tuy vượt Thịnh Đường

Cao Bá Quát được đánh giá là 1 trong 3 đại thi hào của nền văn học Việt Nam, sau Nguyễn Trãi & Nguyễn Du.

Năm 2010, thành phố Hà Nội hoàn thành công trình xây dựng Nhà tưởng niệm Danh nhân Cao Bá Quát tại quê hương ông ở Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội.

Hình & video NHÀ TƯỞNG NIỆM DANH NHÂN CAO BÁ QUÁT

Năm 2010, nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội và Trung tâm Nghiên cứu quốc học thành phố HCM hoàn thành công trình nghiên cứu CAO BÁ QUÁT TOÀN TẬP (gồm 2 tập).

Hình bìa sách CAO BÁ QUÁT TOÀN TẬP

Năm 2013, nhà thờ họ Cao ở Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

Hình ảnh & video Lễ đón nhận bằng di tích lịch sử

Giai thoại Thánh Quát


Giai thoại là những chuyện hay và lạ được truyền tụng trong mọi từng lớp dân gian. Cũng như các truyện cổ tích, tiếu lâm, phong dao, tục ngữ. Giai thoại cũng là sản phẩm văn hóa dân gian tiêu biểu cho tình cảm và đời sống của dân tộc. Nhưng có điều khác hơn, giai thoại là những chuyện có thật, nghĩa là xuất phát từ sự thật, từ những nhân vật có tên tuổi và sự kiện rõ ràng.

Hiện vẫn còn tồn tại nhiều giai thoại liên quan đến nhân cách và tài thơ của Cao Bá Quát. Theo GS Vũ Khiêu, chúng ta chỉ có thể hiểu Cao Bá Quát và đánh giá đúng tư tưởng cùng hành động của ông trên cơ sở phân tích nguồn gốc xã hội đương thời, diễn biến trong cuộc đời và trong thơ văn của ông mà thôi…

Dưới đây là tổng hợp một số giai thoại tiêu biểu về thánh Quát.


Cao Bá Quát tự là Mẫn Hiên, bút hiệu là Chu Thần (Cao Chu Thần), Cúc Đường, Cao Tử…Ông là người làng Sủi, Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

Họ Cao ở làng Sủi vốn là họ lớn, người trong họ nối đời khoa bảng xuất thân; danh vọng nhất là tiến sĩ thượng thư Cao Dương Trạc làm quan đến Binh bộ Thượng thư...Từ nhỏ, ông đã thông minh hơn người, ăn nói đanh thép, dáng điệu hiên ngang, chí khí khác thường. Lên năm tuổi, cha đã cho học chữ. Ông học đâu nhớ đấy, lại thêm chữ viết đẹp như rồng bay phượng múa nên sớm nổi tiếng là thần đồng. Mười tuổi, ông có tài nhả ngọc phun châu, đặt bút là thành thơ. Càng lớn lên, ông càng tỏ ra là người có khí phách khác thường, không chịu cúi đầu khuất phục cường quyền.

Tương truyền, làng ông có người lý trưởng cậy thế quan trên rất hống hách, lạm thu thuế của dân, cả làng sợ uy không ai dám nói. Ông biết chuyện, tức lắm, nhân việc lý trưởng đứng ra thuê thợ đắp đôi voi ở đình bèn làm bài thơ đem đến dán. Thơ rằng:

Khen ai khéo khéo đắp đôi voi

Ðủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi

Chỉ có cái kia sao chẳng thấy

Hay là thầy lý bớt đi rồi!

Lý trưởng biết là Quát nói xỏ mình, song đành bấm bụng làm ngơ.

Một lần khác, nghe tin Minh Mạng ra bắc để nhận phong của vua nhà Thanh, Quát cũng ra Hà Nội xem vua. Hôm đó, trời nắng quá, Quát thấy bức bối trong mình bèn cởi quần áo xuống Hồ Tây tắm. Bất ngờ, Minh Mạng ngự chơi đền Trấn Võ. Lính cận vệ dẹp đường phát hiện ra Quát dưới hồ bèn gọi lên. Quát giả vờ sợ hãi không kịp mặc quần áo, cứ trần như nhộng xin chịu trói. Vừa lúc, kiệu vua xịch đến. Minh Mạng thấy thế cho là hỗn láo vô lễ thì quở mắng. Quát nói mình là học trò, thật tình không biết lối vua đi, xin vua tha tội. Vua bảo:

- Nếu ngươi là học trò, trẫm ra cho câu đối, đối được thì tha, bằng không phải phạt chục roi. Nhân thấy dưới hồ có con cá lớn đuổi bắt cá bé, Minh Mạng tức cảnh đọc rằng:

- Nước trong leo lẻo, cá đớp cá.

Quát gãi đầu gãi tai xin vua có tha tội mới dám đối, Minh Mạng thuận cho. Ðược lời, Quát đối luôn:

- Trời nắng chang chang, người trói người.

Minh Mạng biết mình hớ để Quát xấc xược, đánh đồng vua với Quát, song trót hứa tha tội nên đành giả bộ thản nhiên khen hay rồi cho đi.

Cót két thẩn thơ 

Tương truyền khi chưa quen nhau, ông Quát nghe tiếng ông Nguyễn Văn Siêu dạy học, tìm đến thăm dò. Ông Siêu còn nghèo lắm, chỉ ngồi trên ghế chõng tre cũ kỹ, học trò trải chiếu ngồi quanh nền nhà. Cao Bá Quát xin vào học. Ông Siêu ra câu đối, bảo có đối được mới nhận. Câu đối như sau:
Tiên sinh tọa tịch thượng, cót chi két, két chi cót, cót cót két két.

Ông Quát đối ngay:
Tiểu tử nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ.

Nguyễn Văn Siêu rất phục, dắt tay mời vào. Từ đó hai người kết bạn vong niên.

Trên dưới đều chó 

Nhờ có tài văn chương, tuy chức phận thấp, Cao Bá Quát thường được nhiều người lưu ý, kể cả nhà vua. Một hôm, có hai viên quan cãi cọ nhau về một việc gì đó, đâm ra ẩu đả. Cao Bá Quát vì có chứng kiến nên vua Tự Đức bắt viết tờ trình cho vua rõ đầu đuôi. Ông Quát khai rằng:
Bất tri ý hà
Lưỡng tương đấu khẩu
Bỉ viết cẩu
Thử diệc viết cẩu
Dĩ chí đấu ẩu
Thần kiến thế nguy thần tẩu

Nghĩa là:
Chẳng biết vì sao
Hai bên cãi cọ
Bên này rằng: chó
Bên kia cũng: chó
Trên dưới đều chó
Rồi họ đấu võ
Thần thấy thế nguy thần bỏ.

Khù khờ khệnh khạng

Vua Tự Đức thường cứ nghĩ ra những trò văn chương độc đáo để khoe tài với các quan. Một lần, ông nói với họ:
- Đêm qua, trẫm nằm mơ thấy hai câu thơ thật đặc biệt:
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khaị

Các khanh thấy thế nào?
Các quan đều nức nở cho là lạ, thơ chữ Hán kèm tiếng Nôm, rõ nghĩa mà có hình ảnh tân kỳ, chắc là tiên thánh nào ban cho, hoặc nhà vua nghĩ được câu thần cú. Chỉ có Cao Bá Quát quỳ tâu:
- Tâu bệ hạ, câu thơ ấy là thơ cũ đấy ạ! Nguyên là hai câu 3, 4 ở một bài thơ thần đã được nghe.
Vua ngạc nhiên, thơ mình nghĩ ra kia mà. Anh chàng họ Cao này sao dám nói là thơ cũ? Nhưng vua cũng bình tĩnh bảo:
- Nếu khanh đã nghe cả bài thì đọc thử xem:
Cao Bá Quát đọc:
Bảo mã tây phong huếch hoác lai
Huyênh hoang nhân tự thác đề hồi
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài
Khù khờ thi tứ đa nhân thức
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài

Tạm dịch:
Gió tây ngựa huếch hoác về
Huyênh hoang người cũng tự đi theo vào
Khề khà oanh hót vườn nao
Đồng quê lấm tấm muôn đào nở hoa
Xuân không lộp bộp sương sa
Ngày thu chỉ thấy trời mưa bài nhài
Khù khờ thơ đã cũ rồi
Ông còn khệnh khạng hỏi người hay thở

Đức vua bị một đòn đau quá. Ông biết rõ Cao Bá Quát bịa ra, mà lại ngang nhiên trêu chọc ông: "Khù khờ thơ đã cũ rồi, ông còn khệnh khạng hỏi người hay thơ".
Câu đối ghi vào đèn lồng
Cao Bá Quát có dịp vào Quảng Nam, đến thăm nhà một cụ đồ (sau này là thân sinh ông Nguyễn Hiển Dĩnh). Nhiều người nghe tiếng ông giỏi thơ văn đã đến xin chữ. Một người làm đôi đèn lồng để thờ mẹ, xin ông cho một đôi câu đối Nôm. Ông Quát viết luôn vào đôi đèn lồng hai câu:
- Trước mẹ dạy con, gió chiều nào che chiều ấy, con dạ.
Giờ con thờ mẹ, đèn nhà ai rạng nhà nấy, mẹ ơi!

Trong Nam truyền tụng là câu đối rất hay, dùng toàn tục ngữ mà sát với đôi đèn.
Câu đối ghi ở nhà học 

Trước khi khởi nghĩa, Cao Bá Quát được triều đình nhà Nguyễn đưa đi làm giáo thụ ở Quốc Oai, vùng đất thuộc Sơn Tây, xa chốn kinh đô, thành thị. Học trò ít, cảnh sinh hoạt tiêu điều. Ông đã viết đôi câu đối dán ngoài nhà học:
Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi

Cao Xuân Dục (高春育 1843-1923):

Cao Xuân Dực tự là Tử Phát, hiệu Long Cương Cổ Hoan Đông Cao. Nguyên quán thôn Thịnh Mỹ (Thịnh Khánh), xã Cao Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 1876, ông đỗ Cử nhân, đồng khoa với Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh, Nguyễn Đôn Tiết ở Thanh Hoá và Phan Văn Ái ở Hà Nội.

Ông tổ họ Cao-Xuân có thể là ông Cao Quýnh từ thời vua Lê Thánh Tông. Ông Cao Quýnh thi hương đỗ cử nhân lúc 27 tuổi, sau đó thi hội, khóa Ất Mùi (1475) đỗ hội nguyên và thi đình đỗ thám hoa làm quan tới chức Đông Các Đại Học Sĩ và được khắc tên trong Văn Miếu, Hà Nội. Từ ông Cao Quýnh đến ông Cao Xuân Dục là khoảng 13 đời.
Cao Xuân Dục 高春育 (1843-1923)

Phụ chương gia tộc Cao Xuân Dục

Trong quá trình làm quan, ông được cử giữ nhiều trọng trách như:

· Biện lư Bộ Hình (1883)

· Án sát Hà Nội (1883)

· Bố chính Hà Nội (1884)

· Tuần phủ Hưng Yên (1889)

· Tổng đốc Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang (1889)

· Khâm sai Chủ khảo trường thi Hương Hà Nam (1894)

· Tổng đốc Định Ninh (1896)

· Phong hàm Kiên Giang Quận công (1898)

· Phó Tổng tài Quốc Sử Quán (1898)

· Tổng tài Quốc Sử Quán (1903)

· Chủ khảo trường thi Hội (1901), quản Quốc Tử Giám

· Thượng thư Bộ Học (1907)

· Cơ mật viện Đại thần - Phụ chính Đại thần

· Phong hàm Thái tử Thiếu bảo (1908)

· Phong tước An Xuân tử (1911)

· Về hưu với hàm Đông các Đại học sĩ (1913).

Sáng 6/12/2012, tại thành phố Vinh, UBND tỉnh Nghệ An phối hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An đã tổ chức Hội thảo khoa học Danh nhân văn hóa Đông các Đại học sỹ Cao Xuân Dục (1842- 1923) nhân kỷ niệm 170 năm sinh của ông. Đông đảo các nhà nghiên cứu, đại diện các ban ngành cấp tỉnh, huyện Diễn Châu và dòng họ Cao Xuân đã đến tham dự.

Cha Phêrô CAO HỮU TẠO (1863–1961)

và cha Phêrô CAO HỮU HÂN (1865–1965)

http://www.hdgmvietnam.org/chan-dung-linh-muc-viet-nam-linh-muc-phero-cao-huu-tao-va-linh-muc-phero-cao-huu-han/920.43.13.aspx

Cao Xuân Tiếu 高春肖 (1865-1939):

Ông quê ở làng Thịnh Mỹ, tổng Cao Xá, huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An, làm quan nhà Nguyễn đến chức Thượng thư, Hiệp biện đại học sĩ kiêm Tổng tài Quốc sử quán.
Cao Xuân Tiếu 高春肖 (1865-1939)

Cao Xuân Tiếu đỗ cử nhân năm Tân Mão 1891, đứng thứ nhì trường Nghệ An, và đến năm Ất Mùi 1895, triều Thành Thái đỗ Phó bảng. Ông là con trưởng của quan đại thần Thượng thư bộ Học, Đông các đại học sĩ kiêm Tổng tài quốc sử quán Cao Xuân Dục. Con trai ông là Giáo sư triết học Đông phương Cao Xuân Huy, cháu gọi ông bằng ông nội là Cao Xuân Hạo cũng là một dịch giả, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng.

Ông làm quan nhà Nguyễn lần lượt trải qua các chức án sát Quảng Nam, bố chính Bình Định, Hà Tĩnh, làm chủ khảo khoa thi hương trường Thanh Hóa, tham tri bộ Lễ, bộ Hộ, dần thăng đến chức thượng thư, hiệp biện đại học sĩ kiêm tổng tài Quốc sử quán.

Sau khi về hưu, ông làm chủ tịch hội đồng quản trị Nông tín ngân hàng miền Bắc-Trung Kỳ. Cao Xuân Tiếu mất vào năm Kỷ Mão 1939, hưởng thọ 74 tuổi.

Cao Thắng (1864-1893):

Cao Thắng quê ở thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, tổng Yên Ấp, huyện Hương Sơn (nay là xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh).

Ông là trụ cột của Phan Đình Phùng trong việc tổ chức, rèn luyện và chỉ huy nghĩa quân chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược, cuối thế kỷ 19.

Năm Giáp Tuất (1874), khi mới 10 tuổi, Cao Thắng đã đi theo đội Lựu làm liên lạc cho nghĩa quân Cờ Vàng. Sau khi đội Lựu chết, Cao Thắng lẩn trốn, được giáo thụ Phan Đình Thuật (anh ruột Phan Đình Phùng) đưa về nuôi. Năm 1881, khi ông Thuật mất Cao Thắng trở về Tuần Lễ làm ruộng. Năm Giáp Thân (1884), Cao Thắng bị vu cáo là thủ phạm giết vợ Quản Loan nên bị bắt và giam tại thành Hà Tĩnh đến khi Lê Ninh đánh thành năm 1885 mới được giải thoát.

Về nhà, ông cùng em ruột là Cao Nữu chiêu tập dân đinh khởi nghĩa rồi gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng, được cụ Phan hết sức tin cẩn giao cho chức Quản Cơ, mặc dù mới 21 tuổi, nhưng Cao Thắng tỏ ra là một tướng tài, được quân sĩ tin phục.

Năm 1887, Phan Đình Phùng ra Bắc để liên kết các lực lượng chống Pháp, ông được trao quyền chỉ huy nghĩa quân. Ông đã cho xây dựng một hệ thống đồn luỹ hình thành một thế trận liên hoàn dựa lưng vào dãy Thiên Nhẫn và Giăng Màn. Những căn cứ này tạo thành một hình cánh cung vây kín ba mặt Bắc, Tây, Nam, sẵn sàng ứng cứu cho nhau một cách nhanh chóng.

Hệ thống căn cứ này rất có lợi thế, vừa có đường rút sang Lào, lại có thể tiến thẳng về đồng bằng để khi cần mở rộng địa bàn sang Nghệ An, vào Quảng Bình, xuống vùng Đức Thọ, Thạch Hà, Can Lộc, tiến về tỉnh thành Hà Tĩnh. Giặc Pháp tiến vào đây chỉ có một con đường độc đạo là Quốc lộ 8, cũng chính vì thế những căn cứ này đã có thể giữ vững được cho đến ngày cuối cùng của cuộc khởi nghĩa (1896).

Cao Thắng không những là một nhà chỉ huy quân sự đầy mưu lược. Ông là người sáng chế ra phương pháp chế tạo súng theo kiểu súng 1874 của Pháp. Bằng cách cho tập trung thợ rèn Trung Lương, Vân Chàng, thợ mộc Xa Lang về Trường Sim mở lò rèn đúc súng, cung cấp cho nghĩa quân hàng trăm khẩu súng cùng rất nhiều đạn dược.

Đại uý Pháp Goselin từng dự vào cuộc chinh phạt ở Nghệ Tĩnh đã viết trong cuốn “Nước Nam”:… “Tôi có đem nhiều khẩu súng đó về Pháp, nó giống đủ mọi vẻ như súng của các xưởng binh khí nước ta chế tạo, đến nỗi tôi đưa cho các quan pháo thủ xem, các ông cũng phải sửng sốt lạ lùng”.

Cao Thắng là người có tài tổ chức chỉ huy, biết coi trọng cả quân sự và chính trị. Vùng căn cứ địa Hương Khê, Hương Sơn được ông cho xây dựng, củng cố thành một pháo đài vững chắc, làm bàn đạp để mở rộng địa bàn hoạt động phá thế bao vây của địch. Dưới quyền chỉ huy của Chưởng vệ Cao Thắng, nghĩa quân ngày càng phát triển, liên tục tấn công địch ở Thanh Chương, Anh Sơn (Nghệ An) và ở khắp Hà Tĩnh, bẻ gãy các cuộc càn quét của địch trong những năm 1889 – 1892.

Đầu năm 1893, sau khi dẹp xong các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Kỳ, quân Pháp tập trung lực lượng khép vòng vây, dồn nghĩa quân Hương Khê lên vùng rừng núi. Một mặt chúng cắt đứt các đường tiếp tế lương thực, mặt khác dùng kế ly gián dụ hàng. Để phá thế bao vây của giặc, Cao Thắng đề nghị với Phan Đình Phùng một kế hoạch táo bạo là đánh thẳng vào tỉnh thành Nghệ An, đầu não chỉ huy của địch, khai thông con đường ra Bắc.

Video CAO THẮNG

Cao Văn Lầu (1890-1976):
Cao Văn Lầu, tác giả DẠ CỔ HOÀI LANG

Cao Văn Lầu sinh ngày 22 tháng 12 năm 1890 tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sát nhập với làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An.

Khi Cao Văn Lầu mười sáu tuổi (năm1896), thân phụ ông là Chín Giỏi (tên thật là Cao Văn Giỏi: 1860-1938) vì nghèo, vì bị áp bức nên đã cùng vợ và sáu đứa con nhỏ xuống ghe, tìm đất khác sinh sống.

Buổi đầu, ông Chín Giỏi đến tá túc trên đất của một người bà con ở Gia Hội (Bạc Liêu). Sau 9 tháng đi làm mướn cật lực mà không đủ ăn, gia đình ông lại phải dời sang Xà Phiên (nay thuộc Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang), khẩn hoang làm ruộng.

Khoảng một năm sau, hơn 40 công đất, nhờ khó nhọc mới có được, bị địa chủ chiếm lấy. Nhờ người giới thiệu, gia đình ông Chín Giỏi dọn về Họng Chàng Bè (Giá Rai, Bạc Liêu) để tiếp tục khẩn hoang, nhưng rồi số đất này về sau cũng về tay người khác.

Xót cảnh trắng tay của ông Giỏi, hương sư Chơn ở làng Vĩnh Lợi tổng Thạnh Hòa, cho ông cất một căn chòi lá ở trên đất công điền gần chùa Vĩnh Phước An (nay thuộc phường 2, thị xã Bạc Liêu). Ở đó, vợ chồng ông và các con phải đi làm thuê, đi câu để chạy ăn từng bữa.

Hòa thượng Minh Bảo (? - 1912), trụ trì chùa Vĩnh Phước An, thấy gia đình ông Chín Giỏi vất vả quá mà không đủ ăn, nên đề nghị cho Cao Văn Lầu, lúc đó mới 8 tuổi, vào chùa ở để chia sẻ gánh nặng. Kể từ đó chú bé Lầu, vừa kinh kệ, vừa được nhà sư dạy chữ Nho.

Năm 1903, nhờ cha đến xin, Cao Văn Lầu được phép trở về nhà để học chữ Quốc ngữ. Nhưng chỉ học đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours moyen 2e année) tức lớp 4 ngày nay, thì ông Lầu phải thôi học vì nhà gặp thêm cảnh khó: anh đi ở rể, chị lấy chồng, cha già yếu...Vậy là, năm 17 tuổi (1907), Cao Văn Lầu phải thay cha và anh chị đi làm những việc nặng nhọc để nuôi gia đình.

Lúc bấy giờ tại xóm Rạch Ông Bổn có một thầy đàn nổi tiếng tên Lê Tài Khí, tục gọi Hai Khị hay Nhạc Khị. Ông thầy này bị mù cả hai mắt thêm có tật ở chân, nhưng ngón đàn của ông thật điêu luyện.

Năm 1908, Cao Văn Lầu nhờ cha dẫn đến thầy Hai Khị để xin học đàn mỗi đêm. Nhờ yêu thích và siêng năng, ông mau chóng sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ như đàn tranh, cò, kìm, trống lễ; và trở thành một nhạc sĩ nòng cốt trong ban cổ nhạc của thầy.

Năm 1912, ông bắt đầu đi hát với Sáu Thìn và cô Phấn với bài Tứ đại oán Bùi Kiệm thi rớt.

Năm 23 tuổi (1913), Cao Văn Lầu vâng lệnh cha mẹ đi cưới vợ, đó là cô Trần Thị Tấn (1899-1967), một cô gái nết na ở điền Tư Ô (Chung Bá Khánh).

Khoảng thời gian này, ông sáng tác được một bản ngắn mang tên Bá điểu, sau đổi lại là Thu phong, gồm tám câu nhịp bốn. Sau này, bản nhạc đã được soạn giả Trịnh Thiên Tư đặt thêm lời ca và có tên mới là Mừng khi gặp bạn.

Năm 1917, ông sáng tác thêm một khúc gồm 22 câu, theo một chủ đề của thầy Nhạc Khị đề xướng là "Chinh phụ vọng chinh phu" (chủ đề được rút ra từ bản Nam ai "Tô Huệ chức cẩm hồi văn") nhưng chưa kịp sửa chữa và trình thầy thì gặp nghịch cảnh đau lòng. Vợ ông đã ba năm mà vẫn chưa có dấu hiệu thai nghén, theo tục xưa, cha mẹ buộc ông phải trả vợ về nhà cha mẹ ruột.

Khoảng một năm sau, trong tâm trạng nhớ thương vợ, bản nhạc trên được đem ra soạn lại. Nghe bạn đồng môn tên Ba Chột góp ý, ông bỏ bớt 2 câu trùng lắp, bài nhạc còn chẵn 20 câu nhịp đôi.
Bàn thờ Cao Văn Lầu trong khu lưu niệm trên

Năm 1919, ông Lầu làm nhạc công trong gánh hát cải lương của Ba Xú (Bạc Liêu).

Cách mạng tháng tám thành công, ông tham gia Mặt trận Liên Việt ở ấp Vĩnh Phước, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.

Năm 1947, ông nhận nhiệm vụ đặc biệt và đã cứu được một số cán bộ bị thực dân Pháp bắt.

Từ 1918 đến năm 1974, ngoài bản "Dạ cổ hoài lang", mà sau này phát triển thành bản "vọng cổ", làm thay đổi một phần bộ mặt cải lương; ông Cao Văn Lầu còn sáng tác thêm 10 bản nữa, nhưng đa phần chỉ lưu hành ở Bạc Liêu.

Ông mất lúc 13 giờ ngày 13 tháng 8 năm 1976 tại thành phố Hồ Chí Minh, thọ 86 tuổi (tuổi ta).

Cao Xuân Huy (1900-1983):
Giáo Sư - Triết Gia - Hán Học
(Việt Nam)

Nguyên quán thôn Thịnh Mỹ (Thịnh Khánh), xã Cao Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ông là Giáo sư triết học - Nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử tư tưởng triết học phương Đông. Ông là cháu nội cụ Cao Xuân Dục. (1843-1923). Cha ông là Cao Xuân Tiếu (1865-1939).

Năm 1906, Cao Xuân Huy bắt đầu học chữ Hán với thầy của gia đình và được ông nội (là cụ Cao Xuân Dục, khi đấy là Tổng tài Quốc sử quán) rèn cặp. Năm 1915, ông thi Hương tại trường thi Nghệ An. Sau đó, ông đến Huế theo học bậc Thành chung và tốt nghiệp năm 1922. Sau đó, ông theo học trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương và tốt nghiệp năm 1925. Sau khi tốt nghiệp, ông bước vào cuộc đời dạy học trong 55 năm chỉ gián đoạn chút ít.

Cũng trong năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam. Nhiều phong trào đấu tranh chính trị đòi thả cụ Phan. Vốn sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống yêu nước và chống Pháp, ông cũng bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Khi đó, ông đang dạy ở Trường Quốc học Huế. Năm 1926, ông gia nhập Tân Việt Cách mạng đảng.

Năm 1927, thực dân Pháp tấn công đảng Tân Việt. Ông bị giải chức, đày ra Lao Bảo, sau đó giải về Nghệ An mãi đến năm 1929 mới được thả, ông về làm công tạm cho nhà in Đắc Lập, Huế. Từ năm 1935, ông vào Sài Gòn dạy tư thục Trung học Paul Doumer và Trung học Chấn Thanh. Năm 1938, thầy trở ra Huế dạy tư thục Hồ Đắc Hàm, Việt Anh, Thuận Hóa và tham gia viết báo tiếng Pháp: Revue pédagogique.

Năm 1945, ông được Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mời ra Hà Nội dạy môn triết học phương Đông tại trường Đại học Việt Nam. Trường này đóng cửa sau 3 tháng vì tình hình chính trị Việt - Pháp căng thẳng.

Sau khi chiến tranh nổ ra, ông trở về quê nhà và được cử làm hiệu trưởng trung học Nguyễn Xuân Ôn, Diễn Châu, Nghệ An. Trường năng khiếu huyện Diễn Châu mang tên ông, Cùng thời gian này, ông còn kiêm các chức vụ quan trọng như giáo viên dạy văn học và dạy Pháp văn, giáo viên trường trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng, giáo sư triết học của lớp Đại học Văn khoa đầu tiên ở vùng Thanh - Nghệ.

Năm 1949, ông là giáo sư triết học của lớp Đại học Văn khoa đầu tiên do Bộ Giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập tại vùng tự do Liên khu IV. Lớp có 7 học sinh tốt nghiệp trung học chuyên khoa.

Năm 1951, ông được mời làm Giáo sư Trường Dự bị Đại học Việt Nam tại Thanh Hóa. Tháng 12 năm 1954, ông được điều về Hà Nội giảng dạy môn triết học phương Đông, môn logic học và môn tâm lý học cho lớp Đại học Văn khoa (tiền thân của khoa văn ngữ, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và trường Đại học sư phạm Hà Nội. Năm 1957, ông được mời sang khoa ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, giảng dạy môn tâm lý học. Năm 1958, ông được phong chức Giáo sư.

Cũng trong năm 1958, vì có liên quan đến hoạt động của nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, ông bị đình chỉ nhiệm vụ. Đến năm 1959, Viện Văn học thành lập, ông được cử làm Trưởng Ban Hán - Nôm, rồi Trưởng Ban văn học cổ đại Việt Nam của Viện. Năm 1965, ông là giáo sư chính, giảng dạy môn triết học cho lớp đại học Hán Nôm tại Hà Nội, chịu trách nhiệm đào tạo lớp chuyên tu Hán Nôm trên đại học (1972-1974). Năm 1972, ông là chủ khảo kỳ thi tốt nghiệp 4 năm của Viện Văn Học.

Trong thời gian ở ban Hán Nôm, ông được mời thỉnh giảng ở khoa ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trường Đại học Y - Dược Hà Nội, Viện Đông Y Việt Nam.

Năm 1974, ông nghỉ hưu. Ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22 tháng 10 năm 1983, thọ 83 tuổi.

Ông được Nhà nước Việt Nam tặng tưởng Huân chương Kháng Chiến hạng nhì (1960), giải thưởng Hồ Chí Minh (truy tặng, 1996) cho công trình nghiên cứu Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu.

Tên ông được đặt cho một phố tại Phường 25, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1985, một phố tại quận Nam Từ Liêm, Hà Nội và một con đường chính dài gần 1 km chạy từ bến xe khách chợ Vinh, Nghệ An đến quốc lộ 1A tại thành phố Vinh.

Cao Sĩ Kiêm (1941):

Ông sinh ngày 26 tháng 8 năm 1941 tại thôn Nam Long, xã Tự Tân, huyện Vũ Thư, tỉnhThái Bình. Ông có bằng Tiến sĩ kinh tế. (Huyện Vũ Thư là do 2 huyện cũ là Thư Trì và Vũ Tiên hợp thành).

Ông là một nhà kinh tế và chính khách Việt Nam - nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 1989 đến năm 1997.

Quá trình công tác:

Năm 1960: là cán bộ ngân hàng tỉnh Bắc Cạn.

Năm 1965: là cán bộ ngân hàng tỉnh Thái Bình, sau đó làm Phó giám đốc, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước tỉnh Thái Bình.

Năm 1985: Bí thư Huyện ủy Thái Thụy, Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình

Năm 1986: Ủy viên dự khuyết dự khuyết TW khóa VI

Năm 1989: được bổ nhiệm làm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong những năm Việt Nam chuyển sang cơ chế đổi mới.

Năm 1997: ông từ nhiệm chức vụ Thống đốc Ngân hàng, người tạm thay thế Quyền Thống đốc là ông Đỗ Quế Lượng.

Năm 1991-2001: Ông là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII và VIII.

Năm 2007, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII.

Hiện nay về hưu nhưng ông đang giữ một số cương vị quan trọng như:

· Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam.

· Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia.

· Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME).

· Thành viên trong Hội đồng Khoa học của trường Cán bộ Quản lý Doanh nghiệp Việt Nam (CBAM).

· Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Đông Á.

Ông được nhà nước trao tặng:

· Huân chương Độc lập hạng Nhì

· Huân chương Lao động hạng Nhất

· (8) huy chương của các bộ, ban ngành TW.

· Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì

Cao Đức Phát (1956):
Bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn.

Cao Đức Phát sinh tại xã Yên Khang, huyệnÝ Yên, tỉnh Nam Định.

· Ông tốt nghiệp đại học tại trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp (Nga), bảo vệ luận án tiến sĩ tại Liên Xô cũ, nhận học vị tiến sĩ kinh tế.

· Từ tháng 11/1982 - 11/1991: ông công tác tại Viện Qui hoạch - Thiết kế Nông nghiệp.

· Từ tháng 9/1992 - 7/1995: học về quản lý hành chính tại Đại học Harvard (Mỹ), nhận học vị thạc sĩ quản lý hành chính công.

· Từ tháng 7 - 11/1995: làm giám đốc Trung tâm Phát triển Nông nghiệp, rồi viện phó kiêm giám đốc Trung tâm Phát triển nông nghiệp thuộc Viện Qui hoạch - Thiết kế Nông nghiệp.

· Từ tháng 11/1995 - 11/1999: làm vụ trưởng Vụ Chính sách, rồi vụ trưởng Vụ Kế hoạch - tài chính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

· Từ tháng 11/1999 - 2/2003: giữ chức thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.

· Từ tháng 3/2003 - 3/2004: làm phó bí thư thường trực Tỉnh ủy An Giang.

· Từ tháng 4 - 6/2004: đảm nhiệm cương vị thứ trưởng thường trực Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

· Từ tháng 7/2004 - 11/2004: quyền bộ trưởng, quyền bí thư ban cán sự đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

· Từ 12/2004 đến nay: là bộ trưởng, bí thư ban cán sự đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.


Cao Thị Bảo Vân (1962):

Năm 1986, Cao Thị Bảo Vân tốt nghiệp Đại học Lomonosov (Liên bang Nga) chuyên ngành sinh học phân tử. Bà là người duy nhất đạt giải WIPO và giải Vifotec năm 2007.

Năm 1994, chị hoàn thành luận văn thạc sỹ tại Viện Pasteur Paris, rồi tiếp tục làm nghiên cứu sinh tại Viện này và Trường Đại học Paris XI về cơ chế gen kháng thuốc của các tác nhân nhiễm trùng.

Năm 2002, chị đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ với hạng "tối danh dự".

Hiện nay, Cao Thị Bảo Vân là Phó khoa vi sinh miễn dịch Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, trưởng phòng sinh học phân tử Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh.

TS. Cao Thị Bảo Vân nhận được sự đánh giá rất cao từ Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới. Công trình nghiên cứu của bà: Nghiên cứu giải mã bộ gen virus cúm gà A/H5N1 lưu hành ở Việt Nam trên mẫu bệnh phẩm người và gia cầm năm 2004-2005, có ý nghĩa đặc biệt trong việc phân tích sự tiến hóa di truyền của virus, giúp chọn lọc và phát triển vắc-xin đặc hiệu cũng như sử dụng thuốc trong điều trị cúm A/H5N1 một cách hiệu quả nhất.

Cha của Cao Thị Bảo Vân là tướng Cao Văn Khánh. Mẹ là GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Toản, chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực sản phụ khoa. Bà là một trong những sáng lập viên của Quỹ ủng hộ nạn nhân chất độc da cam và Hội Nạn nhân chất độc da cam Việt Nam.

7/10 11653 bài đánh giá